Xôi Vĩnh Phúc là Đặc sản khá nổi tiếng. Thực khách có thể được thưởng thức rất nhiều loại xôi lạ miệng của Xán Dìu ở xã Trung Mỹ một xã miền núi của huyện Bình Xuyên như xôi vàng do người ta nấu nếp với quả dành dành, xôi xanh do nấu với nhiều loại lá rừng, xôi tím với quả khóe, xôi đỏ với quả gấc, xôi hồng với quả rôm... và đặc biệt là xôi đen với lá cây xau xau. Cây xau xau là loại cây rừng thân gỗ có mùi thơm, lá non có thể dùng làm rau gia vị. Lá cây xau xau ngâm vào thùng nước sẽ cho màu tím đen. Người ta ngâm gạo với nước cây xau xau rồi đem nấu. Xôi xau xau để lâu vẫn dẻo thơm lại lâu bị ôi thiu nên dùng làm thức ăn dự trữ đi đường xa rất thuận tiện.
Xôi Vĩnh Phúc là Đặc sản khá nổi tiếng. Thực khách có thể được thưởng thức rất nhiều loại xôi lạ miệng của Xán Dìu ở xã Trung Mỹ một xã miền núi của huyện Bình Xuyên như xôi vàng do người ta nấu nếp với quả dành dành, xôi xanh do nấu với nhiều loại lá rừng, xôi tím với quả khóe, xôi đỏ với quả gấc, xôi hồng với quả rôm... và đặc biệt là xôi đen với lá cây xau xau. Cây xau xau là loại cây rừng thân gỗ có mùi thơm, lá non có thể dùng làm rau gia vị. Lá cây xau xau ngâm vào thùng nước sẽ cho màu tím đen. Người ta ngâm gạo với nước cây xau xau rồi đem nấu. Xôi xau xau để lâu vẫn dẻo thơm lại lâu bị ôi thiu nên dùng làm thức ăn dự trữ đi đường xa rất thuận tiện.
Đất phù sa sông Hồng có độ no bazơ cao (80-85%), canxi trao đổi 7,1-15,4 cmolc kg-1, magiê trao đổi 1,8-5,7 cmolc kg-1, đạm tổng số 0,12-0,26%, lân tổng số 0,08-0,13%; lân dễ tiêu phổ biến 12,0-15,0 mg/100 g đất, hàm lượng lưu huỳnh trong đất thấp.
Theo phân loại đất Việt Nam, nhóm đất phù sa được chia ra 3 loại đất phù sa theo hệ thống sông: loại đất phù sa hệ thống sông Hồng ký hiệu là Ph, loại đất phù sa hệ thống sông Cửu Long ký hiệu là Pl, loại đất phù sa hệ thống các sông khác ký hiệu là P.
Mỗi loại đất phù sa theo hệ thống sông được chia tiếp thành những loại phụ căn cứ vào địa hình, đặc điểm hình thái phẫu diện và tính chất hóa học, vật lý đất. Có thể chia loại đất phù sa sông Hồng thành 2 loại phụ chính.
Đất phù sa sông Hồng được bồi hay còn gọi là đất phù sa sông Hồng ngoài đê là loại đất bị ngập nước lũ sông Hồng hoặc được tưới đều đặn phù sa sông Hồng, khi nước rút được phủ lên một lớp phù sa mới ở mặt (2-10 cm). Đất phù sa sông Hồng được bồi đắp chủ yếu bởi phù sa các sông từ hằng ngàn năm nay. Nước sông Hồng mang theo phù sa trung bình 1.010 g/m3, ước tính tổng lượng phù sa hằng năm là 120 triệu tấn. Chất lượng phù sa sông Hồng thay đổi theo mùa và ngày càng thay đổi từ năm 2005 khi đập thủy điện Sơn La được xây dựng, đến nay có thêm thủy điện Sơn La và thủy điện Lai Châu.
Đất phù sa sông Hồng được bồi ngoài đê phổ biến có màu nâu tươi, nâu tím. Theo lát cắt (phẫu diện) từ trên xuống khoảng 50-60 cm, màu nâu bắt đầu nhạt dần, tới khoảng 90-100 cm bắt đầu xuất hiện các hạt cát to màu xám, xuống sâu nữa khoảng 150 cm xuất hiện các hạt cát có màu trắng. Theo phân loại đất FAO-UNESCO, đất phù sa sông Hồng điển hình trung tính là Eutric Fluvisol.
Đất phù sa sông Hồng trong đê. Đặc điểm cơ bản trong chinh phục vùng đất đồng bằng sông Hồng là sự hình thành hệ thống đê ngăn lũ bảo vệ dân cư và mùa màng. Hệ thống đê hai bên bờ sông Hồng và các nhánh ước tính dài trên 1700 km đã dẫn đến sự phân hóa chất lượng đất phù sa sông Hồng. Đất phù sa sông Hồng trong đê do ít được bồi đắp phù sa hằng năm, có nơi cao thường gọi là đất vàn cao tạo nên sự rửa trôi các cation kiềm thổ, tích lũy sắt nhôm nhiều, có các vệt đốm gỉ ở các tầng dưới của phẫu diện đất; ở vùng trũng, úng nước đất trở nên bị lầy, nhiều hữu cơ.
Nghiên cứu khoáng sét và vi hình thái cho thấy sự khác biệt rõ nét giữa đất phù sa sông Hồng được bồi ngoài đê và đất phù sa trong đê. Đối với đất phù sa sông Hồng được bồi, hai khoáng vật chính là hydromica và kaolinit; trong khi đó đất phù sa sông Hồng trong đê khoáng vật chính hydromica giảm đi và tăng khoáng vật kaolinit theo chiều sâu phẫu diện
Như vậy, đối với đất phù sa sông Hồng không được bồi, theo thời gian bản chất phù sa sông Hồng đặc trưng bị thay đổi, đất có thể chua, glây hay có tầng loang lổ, theo đó độ phì nhiêu tự nhiên của loại đất này cũng đang bị giảm đi. Mức độ thay đổi phụ thuộc vào địa hình, chế độ canh tác và mực nước ngầm. Theo cách lý giải này các nhà khoa học đất chia ra các nhóm phụ khác như đất phù sa sông Hồng glây, hoặc đất phù sa sông Hồng có tầng loang lổ.
Dung trọng, tỷ trọng và thành phần cơ giới đất phù sa sông Hồng
Các tính chất vật lý đất rất quan trọng trong việc xác định độ phì nhiêu thực tế của đất; Đất phù sa sông Hồng không chỉ có tác dụng trong trồng trọt mà còn rất tốt cho xây dựng, đặc biệt là trong việc xây dựng các khu thể thao cần có nền đất cỏ (như sân chơi gôn, sân bóng đá, sân quần vợt đất nện). Dung trọng, tỷ trọng và thành phần cơ giới là những tính chất cơ bản quan trọng nhất. Trong dân gian, nông dân thường phân biệt đất nặng, đất nhẹ, đất có tơi xốp thoáng khí, thoát nước tốt hay không chính là các chỉ thị nói về thành phần cơ giới của đất; đất phù sa có dung trọng trung bình là 0,84 g/cm3, dao động từ 0,75-0,92 g/cm3. Dung trọng của đất được dùng rộng rãi để xác định khối lượng lớp đất mặt trong sản xuất nông nghiệp, thường hay thay đổi do đặc điểm của chế độ canh tác. Tỷ trọng của đất được định nghĩa như là tỷ số giữa trọng lượng của một thể tích đất và trọng lượng nước có cùng một thể tích ở 40C, tỷ trọng trung bình của đất phù sa sông Hồng là 2,69 g/cm3, dao động từ 2,56-2,82 g/cm3. Độ xốp của đất 60-64% ở tầng mặt, 50-53% ở tầng dưới. Sức chứa ẩm tối đa đồng ruộng của đất bằng 30,2% ở đất có thành phần cơ giới nhẹ, 38,5% ở đất có thành phần cơ giới trung bình và 45,6% ở đất có thành phần cơ giới nặng. Độ ẩm cây héo của đất cũng có xu hướng tương tự, tăng theo mức độ nặng nhẹ của thành phần cơ giới, tương ứng là 4,4%, 11,05% và 24,0%.
Về thành phần cơ giới theo phân loại 3 cấp (thịt, limon, cát) thì đất phù sa sông Hồng có chủ yếu các cấp hạt limon, hàm lượng sét từ 21,4 – 31,4%, limon từ 54,2 – 57,2% còn lại là cát từ 14,4 – 21,4%. Tùy thuộc cự ly phân bố của đất so với sông và từ thượng lưu xuống hạ lưu mà thành phần cơ giới của đất phù sa sông Hồng có thể thay đổi từ cát pha đến thịt nhẹ, thịt, hay thịt nặng.
Bảng 1 trình bày thành phần cấp hạt của đất phù sa sông Hồng theo phân chia 4 cấp từ 2 mm đến nhỏ hơn 0,002 mm.
Đất phù sa sông Hồng là loại đất có độ phì nhiêu tự nhiên rất cao và đồng nhất với độ phì nhiêu thực tế hay còn gọi là sức sản xuất của đất, thích hợp với hầu hết các loại cây trồng với hình thức thâm canh đa dạng. Trên đất phù sa sông Hồng đã hình thành nên nền văn minh lúa nước lâu đời của vùng đồng bằng.
Hiện nay hệ thống cây trồng vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) cũng tương tự như vùng đồng bằng sông Cửu Long và các nước Đông Nam châu Á với khí hậu gió mùa gồm có lúa, hoa màu, cây ăn quả và cây công nghiệp ngắn ngày, nhưng cây lúa vẫn là cây trồng chủ yếu.
Căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội cũng như sự tiến triển của hệ thống cây trồng trong quá khứ, hiện trạng hệ thống cây trồng chính của vùng đồng bằng sông Hồng có các công thức luân canh phổ biến là : 1 vụ lúa/năm, 2 vụ lúa/năm, 2 vụ lúa + 1 vụ màu/năm, 1 vụ lúa + 1 vụ màu/năm, 1 vụ lúa + 2 vụ màu/năm và chuyên màu. Gần đây xuất hiện các công thức luân canh 4 vụ/năm.
Tuy là vùng có nghề trồng lúa nước là chính, nhưng vùng đồng bằng sông Hồng có các tiểu vùng sinh thái khác nhau nên cơ cấu cây trồng, gắn vào đó cơ cấu giống và cơ cấu mùa vụ của mỗi tiểu vùng cũng khác nhau.
Hiện trạng hệ thống cây trồng vùng ĐBSH được mô tả theo các chân ruộng có đặc thù sinh thái khác nhau:
Hiện tại toàn bộ diện tích đất phù sa sông Hồng đã được đưa vào sản xuất với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật như các cuộc cách mạng về giống, phương thức canh tác, chế độ tưới, tiềm năng của đất phù sa sông Hồng đang được khai thác triệt để. Trên những cánh đồng phù sa không phải chỉ có lúa mà còn có các cây trồng khác với những hình thức thâm canh và cơ cấu mùa vụ rất khác nhau. Đối với đất phù sa sông Hồng trồng lúa thường có cơ cấu: 2 vụ lúa, 2 vụ lúa + 1 màu, 1 lúa + 2 màu hoặc 2 lúa –nhiều vụ màu. Năng suất lúa trung bình trên đất phù sa sông Hồng đạt 6 tấn/vụ và nhiều nơi đạt trên 10 tấn/vụ (2018).
Trên đất phù sa sông Hồng cũng đã tạo nên những vùng thâm canh cao: chuyên rau, chuyên hoa, chuyên cây ăn quả (vải, nhãn, chuối, bưởi, ổi, cam, quýt...), cho thu nhập từ vài trăm triệu đồng đến trên 1 tỷ đồng/ha/năm.
Cây trồng trên đất phù sa sông Hồng không chỉ có năng suất cao mà còn có chất lượng đặc biệt, các đặc sản phù sa sông Hồng như nếp cái hoa vàng, vải thiều Thanh Hà, bưởi Diễn, cam Canh, nhãn lồng Hưng Yên, chuối ngự Đại hoàng, húng Láng đã từ lâu đi vào sử sách và như là đặc sản riêng biệt của vùng châu thổ sông Hồng.
Hình thái phẫu diện điển hình đất phù sa sông Hồng
Thông tin: Phẫu diện N5. Xây dựng tiêu chuẩn chất lượng nền môi trường nhóm đất phù sa của Việt Nam, 2001-2003.
Các ace đăng ký thông tin vào form bên dưới để nhận thông tin mới các thị trường nước ngoài hoặc chat qua zalo nhé .https://zalo.me/0963745538)